Bảo tàng Lâm Đồng | Lam Dong Museum

  • hinh1.jpg
  • hinh2.jpg
  • hinh3.jpg

Tìm hiểu về ba Bảo vật quốc gia của tỉnh Lâm Đồng

Đến nay, tỉnh Lâm Đồng có 3 hiện vật được công nhận là Bảo vật quốc gia, gồm Linga vàng Po Dam, Đàn đá Đắk Sơn và Tượng Avalokitesvara Bắc Bình. Các hiện vật này hiện đang được bảo quản, trưng bày và giới thiệu tại hai cơ sở của Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng: Bảo tàng Bình Thuận và Bảo tàng Đắc Nông.

Linga vàng - Tài sản vô giá của văn hóa Chăm

Trong số 29 hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận Bảo vật quốc gia (đợt 12, năm 2023), tại Quyết định số 73/QĐ-TTg ngày 18/01/2024, có Linga vàng Po Dam, xã Liên Hương, tỉnh Lâm Đồng (xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận cũ).

tim hieu ve ba bao vat quoc gia cua tinh lam dong 1

Bảo vật quốc gia - Linga vàng Po Dam

Bảo vật quốc gia Linga vàng Po Dam được phát hiện trong đợt khai quật khảo cổ năm 2013 tại di tích tháp Po Dam. Linga vàng có niên đại khoảng thế kỷ VIII - IX. Đây là hiện vật độc nhất vô nhị được phát hiện đến thời điểm hiện nay ở Việt Nam. Linga vàng này cao 6,6cm, đường kính thân 5,35 - 5,49cm, đường kính vành 5,8 - 6,0cm, trọng lượng 78,36 gram. Qua phân tích thành phần hợp kim của Linga, cho thấy tỷ lệ vàng chiếm tới 90,4%, còn 9,6% còn lại là bạc và đồng. Linga vàng Po Dam chứa đựng những thông tin khoa học quan trọng, có nhiều giá trị đối với công tác nghiên cứu và nhận thức các vấn đề về văn hóa - lịch sử liên quan đến di tích Po Dam và văn hóa Chăm. Trong Bàlamôn giáo, Linga tượng trưng cho thần Shiva với tư cách là nguyên lý nhân quả (phá huỷ và tái sinh), là sự sinh sản, vật thờ quan trọng trong các di tích kiến trúc tôn giáo thuộc văn hoá Champa ở miền Trung Việt Nam và các quốc gia cổ đại khác trong khu vực Đông Nam Á.

Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, Linga là loại hình hiện vật tiêu biểu, có giá trị thẩm mỹ cao, đường nét tạo hình hài hòa, cân đối, phản ánh diện mạo đời sống sinh hoạt (tôn giáo) của một bộ phận cư dân Champa thuộc tầng lớp thượng lưu trong xã hội lúc bấy giờ, mang dấu ấn lịch sử mạnh mẽ của văn hoá Ấn Độ lan tỏa đến vùng đất miền Trung Việt Nam thông qua các hoạt động trao đổi thương mại, giao lưu và tiếp biến văn hoá giữa cư dân tại chỗ với văn hoá Ấn Độ.

Đàn đá Đắk Sơn - Thanh âm vang vọng ngàn năm

Đàn đá Đắk Sơn được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia, tại Quyết định số 1712/QĐ-TTg ngày 31/12/2024 (Đợt 13).
Bảo vật quốc gia Đàn đá Đắk Sơn có niên đại khoảng 3.500 - 3.000 năm cách ngày nay (thuộc giai đoạn hậu kỳ Đá mới - sơ kỳ Kim khí), được chế tác từ loại đá Rhyolite (đá phiến biến chất) đặc trưng ở khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Năm 2014, Bảo vật được người dân phát hiện ngẫu nhiên trong quá trình làm rẫy tại xã Nam Xuân, tỉnh Lâm Đồng (thôn Đắk Sơn, xã Nam Xuân, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông cũ).

tim hieu ve ba bao vat quoc gia cua tinh lam dong 2
Bảo vật quốc gia Đàn đá Đắk Sơn

Đàn đá Đắk Sơn gồm có 16 thanh đá, trong đó 11 thanh nguyên vẹn và 5 thanh gần nguyên vẹn, các thanh đàn có chiều dài trung bình từ 50 - 55cm, rộng trung bình khoảng từ 9.5 - 10cm, dày trung bình 2.5cm, trọng lượng trung bình khoảng 3.5kg.

Đây là hiện vật gốc, độc bản, là nhạc cụ tiêu biểu, cổ xưa nhất của cư dân bản địa được phát hiện ở Tây Nguyên, phản ánh rõ nét đời sống tinh thần và sự sáng tạo nghệ thuật của cư dân cổ, đồng thời là vật biểu trưng mang tính nghi lễ trong đời sống văn hóa tinh thần của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Lâm Đồng (Đắk Nông cũ) và khu vực Tây Nguyên. Đặc biệt, Đàn đá Đắk Sơn độc đáo về âm thanh khi gõ vang xa, trong trẻo, đanh gọn, với cao độ trầm bổng khác nhau, thể hiện kỹ thuật chế tác và khả năng cảm thụ âm nhạc tinh tế của cư dân cổ, minh chứng cho sự lựa chọn nguyên liệu khắt khe và kỹ thuật chế tác tinh xảo, điêu luyện, đỉnh cao của các nghệ nhân qua dấu tích các vết ghè đẽo, tu chỉnh cẩn thận, tỉ mỉ trên bề mặt các thanh. Đàn đá có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hoá, là cơ sở khoa học quan trọng để nghiên cứu về lịch sử âm nhạc, đời sống tinh thần, văn hóa của cộng đồng cư dân bản địa và cũng là “những sáng tạo văn hóa nghệ thuật bản địa”, góp phần hình thành không gian văn hóa tinh thần đặc trưng của Tây Nguyên và đồng bằng Nam Bộ trong gần một thiên niên kỷ.

Đàn đá Đắk Sơn không chỉ là một hiện vật gốc quý hiếm mà còn là minh chứng sống động cho trí tuệ và đời sống tinh thần phong phú của cư dân bản địa thời tiền sử. Việc nghiên cứu đàn đá không chỉ giúp xác định chính xác niên đại sáng chế, mà còn làm sáng tỏ kỹ thuật chế tác, phương thức sử dụng, cũng như vai trò của loại nhạc cụ cổ xưa này trong các nghi lễ và sinh hoạt văn hóa. Đây chính là cây cầu kết nối quá khứ ngàn năm với hiện tại, góp phần phục dựng một cách sinh động diện mạo âm nhạc nguyên sơ - nền tảng của không gian văn hóa Tây Nguyên ngày nay.

Tượng Avalokitesvara Bắc Bình - Kiệt tác nghệ thuật Champa

Tượng Avalokitesvara Bắc Bình được Thủ tướng Chính phủ công nhận bảo vật quốc gia (Đợt 13), tại Quyết định số 1712/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2024.

tim hieu ve ba bao vat quoc gia cua tinh lam dong 3



Bảo vật quốc gia Tượng Avalokitesvara Bắc Bình

Tượng Avalokitesvara Bắc Bình là hiện vật văn hóa Chăm, được chế tác từ đá sa thạch hạt mịn (đá granite hạt nhỏ) màu xám đen, chiều cao 61cm, trọng lượng 13kg, có niên đại thế kỷ VIII - IX. Tượng được người dân tình cờ phát hiện trong quá trình làm nương rẫy tại khu vực thôn Thanh Kiết, xã Hồng Thái, tỉnh Lâm Đồng (xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận cũ) từ trước năm 1945 cùng với 4 pho tượng đá khác (đã thất lạc) được tìm thấy trên địa bàn xã Bắc Bình. Năm 1996, tượng Avalokitesvara được người dân đem chôn giấu trong vườn nhà. Đến năm 2001, ông Ngô Hiếu Học ở thôn Hồng Chính, xã Hồng Thái, tỉnh Lâm Đồng (xã Hoà Thắng cũ) trong quá trình đào móng xây trụ cổng đã phát hiện pho tượng này và bàn giao lại cho Bảo tàng tỉnh Bình Thuận (cũ).

Tượng Avalokitesvara Bắc Bình mang đầy đủ các đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc Champa và có những ảnh hưởng rõ nét từ nghệ thuật điêu khắc đá của miền hạ lưu châu thổ sông Mê Kông, cụ thể là phần vòm cung đỡ phía sau hình chữ U.

Tượng Avalokitesvara Bắc Bình là một trong những đại diện tiêu biểu cho quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa mạnh mẽ của của yếu tố văn hóa ngoại sinh, cụ thể là văn hóa Ấn Độ vốn có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Champa. Bức tượng có tính độc đáo riêng, là một tư liệu lịch sử quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử nghệ thuật - tôn giáo của văn hóa Champa, tiêu biểu cho quá trình phát triển mang tính chất chuyển biến từ phong cách nghệ thuật tạo hình giai đoạn thế kỷ VIII - IX sang giai đoạn phát triển đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình văn hóa Champa, gắn với phong cách nghệ thuật Trà Kiệu (thế kỷ IX) và phong cách nghệ thuật Đồng Dương (thế kỷ IX - X). Tượng mang yếu tố Phật giáo, bên cạnh Hindu giáo vốn được xem là tôn giáo chính trong văn hóa Champa, thể hiện mối quan hệ, giao lưu giữa Ấn Độ với khu vực Đông Nam Á nói chung và miền đất Nam Trung bộ nói riêng trong nửa cuối thiên niên kỷ I Công nguyên.

Tượng Avalokitesvara Bắc Bình là một tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc tôn giáo của phần đất phía Nam (miền Kauthara) trong không gian văn hóa Champa. Đó là sản phẩm của quá trình hội tụ các thành tố ngoại sinh và nội sinh, từ kỹ thuật chế tác đá, nghệ thuật tạo hình cho đến triết lý tôn giáo, tạo nên một sản phẩm vừa đáp ứng nhu cầu thờ cúng, vừa đem lại giá trị mỹ thuật rất cao trên hiện vật, đem lại sự trang nghiêm trong một tổng thể bố cục cân đối mà không làm mất đi đường nét mềm mại và sống động vốn là một trong những đặc trưng nổi bật của nền nghệ thuật tạo hình Champa.

Ba bảo vật quốc gia gồm Linga vàng Po Dam, Đàn đá Đắk Sơn và Tượng Avalokitesvara Bắc Bình không chỉ là những hiện vật quý giá về mặt lịch sử, văn hóa, khảo cổ học mà còn là minh chứng sinh động cho sự phong phú, đa dạng và chiều sâu văn hóa của vùng đất Lâm Đồng qua các thời kỳ. Mỗi bảo vật đại diện cho một giai đoạn phát triển khác nhau của các nền văn hóa - từ văn hóa bản địa thời tiền sử đến văn hóa Chămpa chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Ấn Độ. Những giá trị về tâm linh, nghệ thuật và kỹ thuật chế tác tinh xảo thể hiện qua các hiện vật không chỉ góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của các cộng đồng cư dân trên vùng đất Tây Nguyên mà còn khẳng định vai trò, vị thế của Lâm Đồng trong dòng chảy văn hóa dân tộc và khu vực Đông Nam Á.

Phạm Thị Ngát