Tìm hiểu địa giới hành chính Đà Lạt qua các thời kỳ (từ năm 1893 đến nay)
Sau hơn 130 năm hình thành và phát triển, Đà Lạt từ một vùng đất hoang sơ đã vươn mình đạt nhiều thành tựu quan trọng, trở thành đô thị loại I, tỉnh lỵ của Lâm Đồng. Đà Lạt hiện là một thành phố du lịch nổi tiếng, sở hữu hệ thống di sản độc đáo từ cảnh quan thiên nhiên, đến các công trình kiến trúc, sự hòa quyện văn hóa các dân tộc Tây Nguyên với văn hóa phương Tây và các vùng miền trong nước. Đà Lạt đang hướng đến xây dựng thành phố thông minh, trở thành trung tâm du lịch của khu vực Đông Nam Á vào năm 2030 và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2045. Bảo tàng Lâm Đồng hiện đang lưu giữ nhiều tư liệu, hình ảnh, hiện vật về Đà Lạt có thể giúp công chúng thỏa sức khám phá.
Nghị định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng và hai trạm hành chính tại Tánh Linh và Cao nguyên LangBiang (ngày 01/11/1899)
Ngược dòng lịch sử, Đà lạt và cả cao nguyên Lâm Viên (LangBian) đến những năm cuối thế kỷ XIX là địa bàn cư trú của người Lạch, Chill, Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. Ngày 21/6/1893, trong một chuyến thám hiểm vùng núi rừng ở Nam Trung Kỳ giữa biển Đông và sông Mê Công, đầu nguồn sông Đồng Nai và Xê Băng Can, bác sỹ Alexander Yersin đã đặt chân lên cao nguyên Lâm Viên. Qua chuyến thám hiểm này, Yersin đã đề xuất chọn cao nguyên Lâm Viên làm nơi nghỉ dưỡng và được Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ghi nhận.
Ngày 01/11/1899, Toàn quyền Đông Dương ký nghị định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng, với thủ phủ là Djiring và hai trạm hành chính là Tánh Linh và Lâm Viên (đặt tại Đà Lạt bây giờ). Đây là tiền đề pháp lý đầu tiên cho việc hình thành chức năng hành chính của Đà Lạt.
Ngày 05/01/1906, sau khi tham khảo ý kiến của bác sỹ Tardif, Hội đồng Quốc phòng Đông Dương họp tại Đà Lạt đã quyết định chọn cao nguyên Lâm Viên làm nơi nghỉ dưỡng vì hội đủ điều kiện cần thiết. Đồng thời xác định vị trí Đà Lạt hiện nay thay cho Đan Kia.
Tại nghị định ngày 06/01/1916 của Toàn quyền Roume về việc thành lập tỉnh Lâm Viên, địa giới tỉnh Lâm Viên được xác định: Phía Bắc là sông Krông Knô, phía Đông Nam là sông Krông Pha, phía Nam là sông La Giai, phía Tây là biên giới Campuchia. Tại thời điểm này, Đà Lạt chưa đủ điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho nghỉ dưỡng, đặc biệt là cơ sở pháp lý chưa thật sự đảm bảo cho những ai muốn đầu tư xây dựng.
Ngày 20/4/1916, Hội đồng nhiếp chính của vua Duy Tân đã thông báo Dụ thành lập thị tứ Đà Lạt, trao toàn bộ quyền hạn đối với Đà Lạt cho Toàn quyền Đông Dương, hay nói cách khác là cho người Pháp sở hữu đất đai trong khu vực dưới quyền điều hành trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương.
Ngày 31/10/1920, Toàn quyền Maurice Long ký nghị định thành lập khu tự trị Lâm Viên. Phần đất còn lại của tỉnh Lang Biang mang tên Đồng Nai Thượng, tỉnh lị đặt tại Djiring. Cùng ngày, một nghị định khác của Toàn quyền Đông Dương ấn định khu tự trị trên cao nguyên Lâm Viên thành thị xã Đà Lạt và xác định nâng Đà Lạt lên thị xã hạng hai với những quy chế rộng rãi. Để hoàn chỉnh hơn, một nghị định nhằm tổ chức lại thị xã Đà Lạt được ký ngày 26/7/1926. Các nghị định này đã đưa địa vị của Đà Lạt lên cao hơn: trở thành đơn vị trực thuộc Toàn quyền Đông Dương và có tính tự trị cao hơn so với các thị xã khác. Tinh thần đó cũng được duy trì trong thời kỳ Pháp thuộc và kéo dài đến năm 1975.
Năm 1954, sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneve được ký kết, chia Việt Nam thành hai miền với ranh giới là vĩ tuyến 17. Người Pháp lúc này rút khỏi Đông Dương, Đà Lạt được xem như địa bàn chiến lược quan trọng ở Nam Tây Nguyên.
Đà Lạt khi đó được chính quyền Ngô Đình Diệm thiết lập một hệ thống hành chính khá hoàn chỉnh. Thành phố đặt dưới quyền một thị trưởng với bộ máy giúp việc gồm các ty Nội an và Quân vụ, Hành chính, Tài chính, Kinh tế... và một Hội đồng đô thị. Thị trưởng của Đà Lạt kiêm nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức.
Từ ngày 09/11/1960, tòa thị chính Đà Lạt được sáp nhập với tòa hành chính tỉnh Tuyên Đức. Về tổ chức hành chính, Đà Lạt được chia thành 10 khu phố, xã Liên Hiệp và ấp Thái Phiên. Mỗi khu phố bao gồm nhiều ấp và mỗi ấp đều có ấp trưởng trực tiếp quản lý mạng lưới liên gia từ 10 đến 30 hộ gia đình, đặt dưới sự giám sát của liên gia trưởng về mọi mặt hành chính cũng như an ninh trật tự.
Lịch sử Đà Lạt giai đoạn sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 được đánh dấu bởi hàng loạt những thay đổi hành chính. Trong khoảng thời gian ngắn đầu tiên, Đà Lạt vẫn trực thuộc tỉnh Tuyên Đức. Bắt đầu từ ngày 06/5/1975, Đà Lạt thuộc về khu VI.
Ngày 05/6/1976, tỉnh Lâm Đồng được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh (Tuyên Đức với Lâm Đồng cũ) và Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới.
Tháng 02 năm 1979, Đà Lạt được bổ sung thêm phần đất của vùng kinh tế mới Tà In, thuộc xã Đà Loan, huyện Đức Trọng ngày nay. Ngày 14 tháng 3 cùng năm đó, Hội đồng Chính phủ ra quyết định điều chỉnh địa giới hành chính một số huyện thuộc Lâm Đồng và Đà Lạt được xác định gồm 6 phường và 3 xã Xuân Trường, Xuân Thọ và Tà Nung.
Trong những ngày đầu sau chiến tranh, dân số Đà Lạt giảm xuống, khi nhiều gia đình có người phục vụ trong quân đội và bộ máy chính quyền cũ trở về quê quán, và một phần cư dân tới định cư trên những vùng đất khác của Lâm Đồng theo chính sách kinh tế mới. Sau đó, dân số Đà Lạt được bổ sung bởi chính sách tăng cường cán bộ từ miền Bắc và miền Trung cùng với việc mở rộng địa giới hành chính. Đến năm 1982, dân số Đà Lạt vượt ngưỡng 100 ngàn người.
Kể từ cuối thập niên 1980, cùng với sự phát triển của cả nước, lịch sử Đà Lạt cũng bước vào một giai đoạn mới. Ngày 06/6/1986, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định điều chỉnh địa giới hành chính: Đà Lạt gồm 12 phường và 3 xã (Xuân Thọ, Xuân Trường và Tà Nung).
Năm 1994, Chính phủ phê duyệt Đề án Quy hoạch tổng thể xây dựng thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2010, xác định Đà Lạt là một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng của Việt Nam.
Ngày 24/7/1999, thành phố Đà Lạt được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là đô thị loại II. Trong thập niên 1990, dân số Đà Lạt tăng lên mạnh mẽ, từ 120 ngàn người năm 1990 tăng lên 160 ngàn người năm 1999. Đến năm 2008, Đà Lạt đã có hơn 200 ngàn dân sinh sống.
Trong thập niên 2000, cơ sở hạ tầng đô thị của Đà Lạt tiếp tục được hoàn thiện. Ngày 07/5/2002, Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt Đề án Điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2020.
Ngày 06/3/2009, địa giới hành chính thành phố Đà Lạt được điều chỉnh, gồm 12 phường và bốn xã (Xuân Thọ, Xuân Trường, Tà Nung và Trạm Hành). Ngày 23/3/2009, Đà Lạt được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Lâm Đồng.
Sơ đồ định hướng phát triển không gian thành phố Đà Lạt đến năm 2030
Đến ngày 17/3/2023, Thủ tướng đã ký Quyết định số 257/QĐ-TTg phê duyệt nhiệm vụ điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2045. Theo đó, việc điều chỉnh quy hoạch phải dựa trên cơ sở kế thừa có chọn lọc Đồ án Quy hoạch chung thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 704/QĐ-TTg ngày 12/5/2014 và các đồ án quy hoạch đã phê duyệt. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, phạm vi ranh giới lập quy hoạch Đà Lạt và vùng phụ cận là toàn bộ địa giới hành chính thành phố Đà Lạt và các huyện Lạc Dương, Đơn Dương, Đức Trọng và một phần huyện Lâm Hà (gồm thị trấn Nam Ban và các xã Mê Linh, Đông Thanh, Gia Lâm, Nam Hà), với cao trình từ 850m trở lên. Tổng diện tích tự nhiên khoảng 335.930 ha. Phạm vi nghiên cứu vùng bán kính ảnh hưởng của thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận, bao gồm: thành phố Đà Lạt, các huyện Lạc Dương, Đơn Dương, Đức Trọng, Lâm Hà và Đam Rông với cao trình từ 850m trở lên. Thời hạn quy hoạch đến năm 2045.
Nhìn lại địa giới hành chính Đà Lạt qua các thời kỳ, chúng ta thấy rằng, nơi đây từng là vùng đất sinh sống của các dân tộc thiểu số tại chỗ, cho đến khi người Pháp phát hiện và chọn làm nơi nghỉ dưỡng, nên dễ dàng nhận thấy các kiến trúc xây dựng vào trước năm 1954 đều mang phong cách kiến trúc Pháp. Đến nay, thành phố Đà Lạt đã trở thành trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục… của tỉnh Lâm Đồng. Những định hướng phát triển trong tương lai chính là động lực cũng như lợi thế để thành phố Đà lạt góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của địa phương và cả nước.
Đặng Thanh Đạt
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (2008), Địa chí Đà Lạt, Nxb. Tổng hợp TPHCM.
2. Trương Phúc Ân (2000), Bí mật thành phố hoa Đà Lạt, Nxb. Văn nghệ TPHCM.
3. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (1993), Đà Lạt thành phố cao nguyên, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Chính phủ Việt Nam (2009), Nghị định Điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc thành phố Đà Lạt, huyện Đức Trọng, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
5. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tin mới
- Góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên - 09/09/2024 03:43
- Tìm hiểu vài nét hoa văn trên trang phục truyền thống của dân tộc Cơ Ho tại Bảo tàng Lâm Đồng - 08/09/2024 04:09
- Những dấu ấn và vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - 21/08/2024 03:18
- Vai trò lãnh đạo của Đảng quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - 19/08/2024 02:35
- Di tích quốc gia Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt chính thức được đưa vào Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Lâm Đồng - 05/08/2024 03:14
Các tin khác
- Làm Gốm - nét văn hóa truyền thống của người Chu Ru - 27/06/2024 01:32
- Thắng cảnh hồ Xuân Hương - Trái tim thành phố Đà Lạt - 25/06/2024 04:07
- Triển lãm ảnh “Cao nguyên xanh” - 02/06/2024 11:06
- Kỷ niệm 154 năm Ngày sinh V.I.Lênin (22/4/1870 - 22/4/2024): Chân dung lãnh tụ V.I. Lênin ở Bảo tàng Lâm Đồng - 23/04/2024 23:43
- Kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng Đà Lạt - Lâm Đồng (03/4/1975 - 03/4/2024): Nhìn lại và bước tới - 03/04/2024 10:07